Bệnh học

Ung thư cổ tử cung

Theo

Pedro T. Ramirez

, MD, The University of Texas MD Anderson Cancer Center;

David M. Gershenson

, MD, The University of Texas MD Anderson Cancer Center;

Gloria Salvo

, MD, MD Anderson Cancer Center

Ung thư cổ tử cung thường do tế bào ung thư vảy gây ra bởi nhiễm virus papilloma người; ít gặp hơn, đó là ung thư biểu mô tuyến. Tân sinh cổ tử cung thì không có triệu chứng; triệu chứng đầu tiên của ung thư cổ tử cung giai đoạn sớm thường không rõ, thường là chảy máu âm đạo hậu môn. Chẩn đoán bằng xét nghiệm Papanicolaou cổ tử cung và sinh thiết. Phân loại ung thư dựa vào lâm sàng Điều trị thường bao gồm phẫu thuật cắt bỏ nếu bệnh giai đoạn đầu hoặc xạ trị cùng với hóa trị liệu cho ung thư đã lan đi xa. Nếu ung thư đã di căn rộng rãi, hóa trị liệu thường được sử dụng đơn độc.

Ung thư cổ tử cung là loại ung thư phụ khoa phổ biến thứ 3 và là ung thư phổ biến thứ 8 ở phụ nữ tại Mỹ. Tuổi trung bình khi chẩn đoán là 50, nhưng ung thư có thể xảy ra sớm nhất là 20 tuổi. Tại Mỹ, nó đã gây ra khoảng 12.990 trường hợp mắc mới và 4.120 trường hợp tử vong vào năm 2016.

Ung thư cổ tử cung xuất phát từ ung thư nội biểu mô cổ tử cung (CIN), do nhiễm virus HPV các nhóm 16, 18, 31, 33, 35, hoặc 39.

Các yếu tố nguy cơ thường gây ung thư cổ tử cung bao gồm

– Quan hệ tình dục từ sớm

– Nhiều bạn tình

– Hút thuốc lá

– Suy giảm miễn dịch

Bất kể tiền sử về tình dục, các bác sĩ lâm sàng nên giả định rằng phụ nữ đã tiếp xúc với một người bị HPV vì nó rất phổ biến.

Bệnh học

CIN được xếp loại là

1: Chứng loạn sản cổ tử cung nhẹ

2: Dị sản trung bình

3: Chứng loạn sản nặng và ung thư tại chỗ

CIN 3 không có khả năng tự hồi phục; nếu không được điều trị, có thể qua nhiều tháng hoặc nhiều năm xâm nhập qua màng đáy trở thành ung thư xâm lấn.

Khoảng 80 đến 85% các trường hợp ung thư cổ tử cung là ung thư biểu mô tế bào vảy; phần lớn còn lại là ung thư biểu mô tuyến. Sarcomas và các khối u nội tiết tế bào nhỏ rất hiếm gặp.

Ung thư cổ tử cung xâm lấn thường lan rộng bằng cách lan rộng trực tiếp vào các mô xung quanh hoặc thông qua mạch bạch huyết đến các hạch lympho vùng chậu và cạnh động mạch chủ Sự lan truyền bằng đường máu là có thể nhưng hiếm.

Nếu ung thư cổ tử cung lan đến các hạch bạch huyết vùng chậu hay cạnh động mạch chủ, tiên lượng thường xấu, và vị trí và kích thước của trường chiếu xạ bị ảnh hưởng.

Triệu chứng và Dấu hiệu

Ung thư cổ tử cung giai đoạn sớm có thể không có triệu chứng. Khi các triệu chứng xuất hiện, chúng thường bao gồm chảy máu âm đạo bất thường, thường là sau quan hệ nhưng cũng có thể xảy ra tự nhiên giữa chu kì. Các trường hợp ung thư nặng hơn có nhiều khả năng bị chảy máu tự nhiên và có thể gây ra tình trạng khí hư âm đạo hôi thối hoặc đau vùng chậu. Ung thư khi lan rộng hơn nữa có thể gây ra tắc nghẽn hệ tiết niệu, đau lưng, và sưng chân do tắc tĩnh mạch hoặc bạch huyết.

Khám vùng chậu có thể phát hiện một khối u hoại tử lồi ra từ cổ tử cung.

Chẩn đoán

– Xét nghiệm Papanicolaou (Pap)

– Sinh thiết

– Phân loại giai đoạn bệnh, thường bởi sinh thiết, khám vùng chậu, chụp X-quang ngực

Ung thư cổ tử cung có thể được phát hiện khi khám phụ khoa thông thường, định kỳ. Nó được xem xét ở phụ nữ với

– Tổn thương cổ tử cung nhìn thấy được

– Kết quả xét nghiệm Pap bất thường

– Chảy máu âm đạo bất thường

Xét nghiệm Pap

Báo cáo kết quả tế bào cổ tử cung được chuẩn hóa (Phân loại dựa chỉ số Bethesda cho tế bào học cổ tử cung). Đánh giá sâu hơn được chỉ định nếu phát hiện thấy tế bào lạ không điển hình hoặc tế bào ung thư, đặc biệt ở những phụ nữ có nguy cơ. Nếu tế bào học không cho thấy bất kỳ tế bào ung thư rõ ràng nào, việc nội soi cổ tử cung (khám âm đạo và cổ tử cung với ống kính lúp) có thể được sử dụng để xác định các khu vực cần sinh thiết. Sinh thiết trực tiếp bằng soi cổ tử cung với nạo ống cổ tử cung thường được dùng để chẩn đoán. Nếu không, cần phải thực hiện cắt bỏ theo hình nón (khoét chóp); phần tổ chức được lấy ra bằng cách sử dụng cắt điện vòng (LEEP), laser, hoặc dao mổ thường.

Chẩn đoán giai đoạn

Ung thư cổ tử cung được phân loại lâm sàng dựa trên sinh thiết, khám lâm sàng và chụp X quang phổi (xem Bảng: FIGO Giai đoạn lâm sàng của ung thư cổ tử cung). Trong hệ thống giai đoạn của liên đoàn quốc tế về Phụ khoa và Sản khoa (FIGO), giai đoạn không bao gồm thông tin về tình trạng của hạch bạch huyết. Mặc dù không được đưa vào chẩn đoán giai đoạn, tình trạng hạch bạch huyết cần được biết để xây dưng kế hoạch điều trị và ảnh hưởng đến quyết định về quy mô và vị trí của vùng cần phải điều trị xạ trị.

Nếu giai đoạn là > IB1, CT hoặc MRI của vùng bụng và vùng chậu thường được thực hiện để xác định di căn, mặc dù kết quả không được sử dụng để xác định giai đoạn. PET với CT (PET / CT) đang được sử dụng phổ biến hơn để kiểm tra sự lan rộng ra ngoài cổ tử cung. Nếu không có PET / CT, MRI, hoặc CT, có thể dùng soi bàng quang, soi đại tràng và chụp hệ tiết niệu khi được chỉ định lâm sàng, có thể sử dụng để chẩn đoán giai đoạn bệnh.

FIGO Giai đoạn lâm sàng của ung thư cổ tử cung

Giai đoạn Sự miêu tả
I Ung thư khu trú tại cổ tử cung
IA Ung thư được chẩn đoán chỉ bằng kính hiển vi, với sự xâm nhập mô đệm ≤ 5 mm chiều sâu và chiều rộng lớn nhất ≤ 7 mm *
IA1 Xâm nhập mô đệm được đo ≤ 3 mm chiều sâu và ≤ Rộng 7 mm
IA2 Xâm nhập mô đệm được đo > 3 mm và ≤ 5 mm chiều sâu và ≤ 7 mm chiều rộng
IB Các tổn thương nhìn thấy trên lâm sàng khu trú ở cổ tử cung hoặc những tổn thương vi thể lớn hơn những tổn thương ở giai đoạn IA2
IB1 Thương tổn nhìn thấy trên lâm sàng có kích thước lớn nhất ≤ 4 cm
IB2 Thương tổn nhìn thấy lâm sàng có kích thước lớn nhất > 4 cm
II Tổn thương lan rộng ra ngoài cổ tử cung nhưng không vào thành khung chậu hoặc tới phần ba dưới của âm đạo
IIA Tổn thương xâm lấn lên đến 2/3 trên của âm đạo; không quan sát thấy xâm lấn vào vùng lân cận xung quanh
IIA1 Tổn thương nhìn thấy trên lâm sàng có kích thước lớn nhất ≤ 4.0 cm
IIA2 Tổn thương nhìn thấy trên lâm sàng có kích thước lớn nhất > 4,0 cm
IIB Xâm lấn vùng xung quanh cổ tử cung
III Lan rộng tới thành khung chậu và / hoặc xâm lấn 1/3 dưới của âm đạo và / hoặc gây chứng ứ nước thận hoặc thận không còn chức năng.
IIIA Lan rộng tới 1/3 dưới của âm đạo nhưng không vào thành khung chậu
IIIB Lan rộng tới thành khung chậu và / hoặc gây ứ nước thận hoặc thận mất chức năng
IV Lan rộng vượt ra ngoài khung chậu hoặc có dấu hiệu lâm sàng do xâm lấn bàng quang hoặc niêm mạc trực tràng (phù rộp không có ý nghĩa giai đoạn IV)
IVA Xâm nhập niêm mạc bàng quang hoặc trực tràng và / hoặc mở rộng thật sự ra ngoài xương chậu
IVB Lan đến các cơ quan xa (bao gồm cả lan truyền ra phúc mạc)
* Độ sâu của tổn thương xâm nhập phải được đo từ màng đáy của biểu mô (bề mặt hoặc tuyến) từ nơi nó bắt đầu. Sự xâm lấn vào vùng mạch máu (tĩnh mạch hoặc bạch huyết) không nên làm thay đổi giai đoạn.
Đánh giá giai đoạn dựa vào bởi Liên đoàn Phụ khoa và Sản khoa Quốc tế (FIGO) và Uỷ ban Hỗn hợp Ung thư Hoa Kỳ (AJCC), AJCC Cancer Staging Manual, ed. 7. New York, Springer, 2010.

Mục đích của hệ thống chẩn đoán này là thiết lập một cơ sở dữ liệu lớn để nghiên cứu; do đó, hệ thống sử dụng tiêu chuẩn chẩn đoán thống nhất trên toàn thế giới. Hệ thống này loại trừ kết quả của các xét nghiệm ít có khả năng có sẵn trên toàn thế giới (ví dụ, MRI) vì hầu hết các trường hợp ung thư cổ tử cung xảy ra ở các nước đang phát triển. Bởi vì các xét nghiệm như vậy không được sử dụng, các phát hiên như xâm nhập xung quanh cổ tử cung và di căn hạch bạch huyết thường bị bỏ quên, và do đó có thể chẩn đoán sai giai đoạn.

Khi các xét nghiệm bằng hình ảnh cho thấy các hạch bạch huyết ở vùng chậu hoặc xung quanh động mạch chủ to lên đáng kể (> 2 cm), phẫu thuật thăm dò, điển hình với việc mở phúc mạc hiếm khi được chỉ định. Mục đích duy nhất của nó là loại bỏ các hạch lympho bị to ra để điều trị xạ có thể được nhắm trúng đích chính xác hơn và hiệu quả hơn.

Tiên lượng

Trong ung thư biểu mô tế bào vảy, các di căn xa thường chỉ xảy ra khi ung thư tiến triển hoặc tái phát. Tỷ lệ sống sót 5 năm như sau:

– Giai đoạn I: 80 đến 90%

– Giai đoạn II: từ 60 đến 75%

– Giai đoạn III: 30 đến 40%

– Giai đoạn IV: 0 đến 15%

Gần 80% số lần tái phát xuất hiện trong vòng 2 năm.

Các yếu tố tiên lượng xấu bao gồm:

– Xâm lấn hạch bạch huyết

– Kích thước và thể tích khối u

– Độ sâu xâm nhập mô đệm cổ tử cung

– Xâm nhập mô lân cận xung quanh

– Sự xâm nhập vùng mạch máu

– Tế bào ung thư không phải biểu mô vảy

Điều trị

– Cắt bỏ hoặc trị liệu hoặc xạ trị nếu không lan đến các mô lân cận xung quanh hoặc xa hơn

– Điều trị xạ và hóa chất nếu có lan đến các mô lân cận xung quanh hoặc xa hơn

– Điều trị hoá chất khi có di căn và tái phát

Điều trị ung thư cổ tử cung có thể bao gồm phẫu thuật, xạ trị và hóa trị. Nếu phẫu thuật cắt bỏ tử cung được chỉ định nhưng bệnh nhân không thể chịu được thì nên sử dụng phương pháp xạ trị phối hợp với hóa chất

Phòng bệnh

Xét nghiệm Pap

Xét nghiệm sàng lọc định kỳ xét nghiệm Pap thường được khuyến cáo như sau:

– Từ 21 đến 30 tuổi: Thường 3 năm một lần cho xét nghiệm Pap (xét nghiệm HPV thường không khuyên dùng)

– Tuổi từ 30 đến 65: Mỗi 3 năm một lần nếu chỉ làm xét nghiệm Pap hoặc mỗi 5 năm nếu xét nghiệm Pap và xét nghiệm HPV cùng được thực hiện (thường xuyên hơn ở những phụ nữ có nguy cơ cao về ung thư cổ tử cung)

– Sau tuổi 65: Không cần làm xét nghiệm nữa nếu kết quả xét nghiệm bình thường trong 10 năm trước

Nếu phụ nữ đã được phẫu thuật cắt tử cung do một nguyên nhân khác không phải ung thư và không có kết quả xét nghiệm Pap bất thường thì việc sàng lọc không được chỉ định.

Xét nghiệm HPV là phương pháp đánh giá tiếp theo cho tất cả phụ nữ có ASCUS (các tế bào vảy không điển hình ý nghĩa không xác định), phát hiện không kết luận được bằng xét nghiệm Pap. Nếu xét nghiệm HPV cho thấy người phụ nữ không nhiễm HPV, việc sàng lọc nên được tiếp tục định kỳ theo các khoảng thời gian quy định. Nếu có HPV, cần phải nội soi cổ tử cung.

Vắc xin HPV

Phòng bệnh Vắc-xin HPV bao gồm:

– Cevarix của Bỉ là vắc xin hai trong một bảo vệ chống lại các phân nhóm phụ 16 và 18 (gây ra hầu hết các loại ung thư cổ tử cung)

– Gardasil cảu Mỹ là vắc xin bốn trong một bảo vệ chống lại các phân nhóm phụ 16 và 18 cộng với 6 và 11

– Ngoài ra còn vắc xin chín trong một bảo vệ chống lại các phân nhóm giống như vacxin 4 trong 1 cộng thêm phân nhóm 31, 33, 45, 52, và 58 (gây ra khoảng 15% ung thư cổ tử cung)

Phân nhóm phụ 6 và 11 gây > 90% chứng mụn cóc sinh dục nhìn thấy được.

Các vắc xin nhằm mục đích ngăn ngừa ung thư cổ tử cung nhưng không điều trị nó. Đối với bệnh nhân > 15 tuổi, ba liều được tiêm trên 6 tháng (ở 0, 1 đến 2 và 6 tháng). Đối với bệnh nhân <15 tuổi, hai liều được tiêm từ 6 đến 12 tháng. Thuốc chủng ngừa được khuyến cáo cho nam và nữ, lý tưởng là trước khi họ quan hệ tình dục. Khuyến cáo tiêu chuẩn là nên tiêm vắc-xin cho bé trai và bé gái từ 11 đến 12 tuổi, nhưng việc tiêm phòng có thể bắt đầu vào 9 tuổi.

Những điểm chính

– Xem xét ung thư cổ tử cung nếu phụ nữ có kết quả xét nghiệm Pap bất thường, tổn thương cổ tử cung có thể nhìn thấy, hoặc bất thường, đặc biệt là chảy máu âm đạo sau quan hệ.

– Làm sinh thiết để xác định chẩn đoán.

– Giai đoạn lâm sàng của ung thư cổ tử cung được đánh giá bằng sinh thiết, khám vùng chậu và chụp X-quang ngực, và nếu giai đoạn > IB1, sử dụng PET / CT, MRI, hoặc CT để xác định di căn.

– Cách điều trị là phẫu thuật cắt bỏ ung thư giai đoạn sớm (thường từ giai đoạn IA đến IB1), xạ trị cùng với hóa trị liệu cho ung thư tiến triển tại chỗ (thường giai đoạn IB2 đến IVA), và hóa trị liệu cho ung thư di căn xa.

– Sàng lọc tất cả phụ nữ bằng cách làm xét nghiệm Pap và HPV theo thời gian quy định.

– Đề nghị tiêm phòng HPV cho bé gái và bé trai.

Một nghiên cứu khác cho thấy:

Trong hơn 20 năm trở lại đây, y học đã phát hiện mối liên hệ mật thiết giữa ung thư CTC và virut gây u nhú ở người (human papillomavirus- HPV). Gần như 99% trường hợp bị ung thư CTC đều liên quan đến việc nhiễm HPV trước đây. Trong đó, týp 16 và 18 chiếm gần 70% trường hợp. Tuy nhiên, không phải cứ nhiễm HPV đều sẽ bị ung thư CTC. Ít nhất là HPV cần một thời gian tương đối trước khi có thể gây chuyển biến tiền ung thư và ung thư trên tế bào CTC. Virut này có thể thay đổi các tế bào của CTC và qua nhiều năm, những thay đổi này có thể dẫn đến ung thư nếu không được phát hiện và điều trị.

Các chất độc hại trong khói thuốc góp phần phá hủy các tế bào bình thường và đẩy nhanh quá trình phát triển của tế bào ác tính. Quan hệ tình dục sớm, sinh đẻ sớm, sinh đẻ nhiều lần, quan hệ với nhiều người cũng giữ vai trò gây ung thư CTC. Tình trạng viêm CTC mạn tính, thói quen vệ sinh cá nhân kém… là yếu tố gia tăng nguy cơ ung thư CTC.

Ung thư CTC ít gặp ở độ tuổi 20-30, 60% là khoảng 35-55 tuổi, 20% là khoảng 55-65 tuổi, 8% khoảng 65-75 tuổi. Do vậy mà bệnh xuất hiện cả trước và sau mãn kinh.

Ung thư CTC gồm hai thể là ung thư biểu mô dạng biểu bì hoặc ung thư biểu mô tuyến. Các ung thư biểu mô dạng biểu bì gần như là phổ biến nhất, chiếm 90-95% các trường hợp.

Một số dấu hiệu nhận biết sớm ung thư CTC

Khi chị em mắc ung thư CTC ở giai đoạn đầu hoặc có những tổn thương về tiền ung thư thì thường không có hay có ít các triệu chứng đặc hiệu nào về bệnh. Dấu hiệu ung thư CTC chỉ xuất hiện rõ ràng khi các tế bào ác tính phát triển nhanh và xâm lấn vào các tổ chức lân cận. Khi hiện tượng này xảy ra, các triệu chứng ung thư CTC bao gồm:

Đau vùng chậu: Tự dưng chị em thấy những cơn đau bất thường ở vùng chậu hoặc đau khi giao hợp… Những cơn đau này có thể cảnh báo nguy cơ mắc ung thư CTC cao.

Dịch âm đạo có màu bất thường: Dịch âm đạo bỗng dưng có màu vàng, xanh như mủ hoặc lẫn màu hồng của máu và gây ra mùi khó chịu, trường hợp này có thể phụ nữ đang gặp một số bệnh, có thể là do ung thư buồng trứng hay viêm vòi trứng, ung thư CTC…

Chảy máu bất thường: Chảy máu sau khi quan hệ tình dục, chảy máu khi đã mãn kinh, chảy máu ngoài kỳ kinh hoặc kỳ kinh kéo dài bất thường. Một số trường hợp bệnh nhân chảy máu sau khi thụt rửa âm đạo hoặc khám vùng chậu. Lưu ý, mức độ chảy máu ở mỗi người là khác nhau, có người chảy nhiều, có người chảy ít.

Thiếu máu: Thiếu máu có thể xảy ra với bệnh ung thư CTC vì số lượng tế bào hồng cầu khỏe mạnh bị giảm và được thay thế bằng các bạch cầu để đẩy lùi bệnh. Thiếu máu thường khiến cho người bệnh cảm thấy mệt mỏi và cạn kiệt năng lượng, giảm cân không rõ nguyên nhân và mất cảm giác ngon miệng.

Bất thường trong tiểu tiện: Khi bạn hắt hơi mà bị són tiểu hay khi đi tiểu có máu, đau thì nên đi khám ngay lập tức. Rất có thể bạn bị ung thư CTC. Trường hợp này rất nguy hiểm. Nếu đúng là ung thư CTC thì các tế bào ung thư đã lan ra các bộ phận khác trên cơ thể.

Lời khuyên của thầy thuốc

Chị em phụ nữ cần giữ cho mình tinh thần lạc quan, vui vẻ, hạn chế stress bởi chúng là yếu tố khiến mầm bệnh hình thành và phát triển nhanh hơn. Ngoài ra, định kỳ 3-6 tháng nên đi khám phụ khoa và làm thêm các xét nghiệm tầm soát tế bào ung thư. Nếu đang có vấn đề về viêm nhiễm phụ khoa như khí hư bất thường, viêm âm đạo, viêm lộ tuyến CTC… thì cần đi khám và chữa trị dứt điểm để bệnh không tiến triển nặng hơn.

Bên cạnh đó, trong cuộc sống thường ngày, chị em nên giữ gìn vệ sinh “vùng kín” sạch sẽ, quan hệ tình dục lành mạnh, sử dụng các biện pháp tránh thai an toàn.

Theo SKĐS online.

Các tin liên quan